Gia đình Việt Nam – Kinhdoanhdautu.com https://kinhdoanhdautu.com Trang thông tin kinh doanh & đầu tư Fri, 03 Oct 2025 13:57:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.4 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhdautu/2025/08/kinhdoanhdautu.svg Gia đình Việt Nam – Kinhdoanhdautu.com https://kinhdoanhdautu.com 32 32 Nữ anh hùng thời kháng chiến qua đời https://kinhdoanhdautu.com/nu-anh-hung-thoi-khang-chien-qua-doi/ Fri, 03 Oct 2025 13:57:06 +0000 https://kinhdoanhdautu.com/nu-anh-hung-thoi-khang-chien-qua-doi/

Tháng Bảy – tháng của tri ân, của những tưởng nhớ và hoài niệm trong dạt dào cảm xúc thiêng liêng, chúng tôi đến nhà bà Mã Thị Dung, 89 tuổi, xóm Dẻ Đoóng, xã Hòa An – tấm gương vợ liệt sĩ đã vượt lên nỗi đau mất mát với sự hy sinh cao cả, lòng yêu nước và ý chí kiên cường, sống cuộc đời ý nghĩa trong hành trình góp phần viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc.

Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.
Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.

Trong căn nhà nhỏ, bà Mã Thị Dung ngồi lặng lẽ với đôi mắt ngấn lệ, bàn tay xù xì nhẹ nhàng đặt lên bức ảnh của người chồng là liệt sĩ Nông Quang Khánh. Nhớ những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi, nhớ dáng vẻ kiên cường anh dũng của chồng, nhớ mộ phần liệt sĩ trong sắc xanh của đại ngàn Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.
Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.

Năm 1962, chàng thanh niên mồ côi Nông Quang Khánh nhập ngũ, trong quá trình làm nhiệm vụ đã quen và cảm mến cô gái thùy mị, xinh đẹp Mã Thị Dung khi đó là đội viên thanh niên xung phong. Đầu năm 1964, hai người nên duyên vợ chồng, cuối năm 1964 hạnh phúc nhân đôi khi hai vợ chồng đón cô con gái đầu lòng Nông Thị Bền và đầu năm 1967 tiếp tục đón con trai Nông Trung Kiên ra đời.

Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi chẳng tày gang, đến tháng 6/1967, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn ác liệt, chồng bà đã xung phong vào chiến trường phía Nam để được trực tiếp chiến đấu góp phần giải phóng quê hương. Hòa cùng vào đoàn quân Nam tiến, ông Khánh lên đường đánh giặc, còn bà Dung ở nhà trở lại công việc hằng ngày, chăm sóc con nhỏ cùng nỗi nhớ chồng cồn cào, da diết. Chiến tranh khốc liệt, bà Dung không nhận được tin tức hay lá thư nào của chồng nhưng bà Dung luôn vững tin, tự nhủ chồng bà sẽ trở về, 2 con sẽ được ở bên người cha bằng xương, bằng thịt chứ không phải qua những câu chuyện bà kể.

Nhưng chiến tranh kết thúc mà chồng bà mãi vẫn không trở về, đến năm 1977, sau bao mong ngóng thông tin của chồng, bà Dung nhận được lại là tin báo tử, máu xương người chồng bà thương nhớ đã hòa quyện nơi chiến trường. Đau đớn là thế nhưng bà cố gằng gượng đứng lên vì 2 con, vì niềm tự hào khi chồng anh dũng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc trở thành động lực mạnh mẽ giúp bà không quản khó khăn, mất mát.

Sau niềm an ủi đã tìm được mộ phần của chồng, bà Dung trăn trở với nỗi niềm nên đưa ông về với quê hương để con cái được gần gũi chăm sóc phần mộ và để xứng đáng với tình hiếu nghĩa, đạo lý vợ chồng hay để ông nằm lại nơi chiến trường nơi ông và các đồng đội đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Hằng năm, bà và các con lại thu xếp thời gian vào thăm mộ ông Khánh, đến năm 2000, bà Dung mạnh mẽ quyết định không di dời hài cốt ông về với gia đình mà để ông Khánh yên nghỉ nơi linh thiêng khu mộ liệt sĩ Cao Bằng của Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Người vợ liệt sĩ như bà Mã Thị Dung cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác đều đã gói lại niềm riêng, sẵn sàng gạt tình yêu, hạnh phúc gia đình sang một bên để chồng yên tâm lên đường bảo vệ Tổ quốc. Mạnh mẽ vượt lên mọi mất mát, đau thương vẫn một lòng thờ chồng, nuôi con trưởng thành, là hậu phương vững chắc cho người lính đã nằm lại chiến trường phía Nam, góp phần cho đất nước hôm nay nở hoa.

]]>
Giữ lửa tiếng Việt trong cộng đồng người gốc Việt ở Lào https://kinhdoanhdautu.com/giu-lua-tieng-viet-trong-cong-dong-nguoi-goc-viet-o-lao/ Wed, 24 Sep 2025 00:11:29 +0000 https://kinhdoanhdautu.com/giu-lua-tieng-viet-trong-cong-dong-nguoi-goc-viet-o-lao/

Ở thủ đô Vientiane của Lào, một gia đình nhỏ vẫn âm thầm giữ gìn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một dòng chảy văn hóa không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, một người phụ nữ gốc Việt 97 tuổi, với những nỗ lực không ngừng nghỉ để bảo tồn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt nơi xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, cùng gia đình định cư tại Lào và xây dựng cuộc sống mới. Dù sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một dòng chảy không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

]]>